trọng và có tác dụng làm cho hành vi của trẻ trở nên tốt đẹp và có văn hóa. 2.3.2. Khủng hoảng của trẻ lên ba và đặc điểm hành vi của trẻ Khi trẻ tách được mình ra khỏi người khác và có ý thức về khả năng của chình mình Hành trình công lý tập 6: Dù hết mực nghĩ tốt cho chồng nhưng Phương vẫn rất sốc khi biết chồng và nhân tình mới chết từng qua lại từ lâu. Dù mọi người có cố gắng giấu kín chuyện của Hoàng đến đâu thì bé Thư cuối cùng cũng biết. Cô bé rất buồn vì mẹ của Một số dấu hiệu phổ biến của hành vi bình thường ở trẻ 4 tuổi là: Thích chơi trong đám đông và làm hài lòng bạn đồng hành. Thỉnh thoảng rất đòi hỏi điều mình muốn và những lần khác, thì vẫn có thể hợp tác. Dấu hiệu tăng tính độc lập và cá nhân. Có thể phân biệt giữa những gì tưởng tượng và những gì thực tế. Tôi đã thực hiện khảo sát chất lượng hành vi lễ giáo của trẻ đầu năm và thu được kết quả như sau: STTHành vi lễ giáo của trẻKết quả đạt được1Biết chào hỏi lễ phép.15/38 đạt 39.5%2Biết xưng hô lễ phép. 19/38 đạt 50%3Biết cảm ơn, xin lỗi.18/38 đạt 47.4%4Biết Rối loạn hành vi ở trẻ em có thể biểu hiện qua các triệu chứng sau đây: Người mắc bệnh rối loạn hành vi thường kéo dài tối thiểu từ 3- 6 tháng Cư xử hung hãn với mọi người xung quanh, kể các với các đồ vật hoặc con vật Thường phá phách, trốn học, đánh nhau Hay nói dối Có những hành động gây hại cho những người xung quanh . Bài viết được tham vấn chuyên môn cùng Thạc sĩ, Bác sĩ Nguyễn Minh Sơn - Bác sĩ Tim mạch can thiệp - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang. Tự kỷ là một nhóm những rối loạn phức tạp trong quá trình phát triển của bộ não. Trẻ bị tự kỷ thường lặp đi lặp lại một số động tác, thiếu thích nghi và thích thú, không biết vui đùa, cứng nhắc... Do đó, việc quan sát các hành vi của trẻ tự kỷ rất quan trọng để có biện pháp điều trị kịp thời. 1. Tự kỷ là gì? Tự kỷ hay còn được gọi là rối loạn phổ tự kỷ, một nhóm những rối loạn phức tạp trong quá trình phát triển của bộ não. Theo nghiên cứu của viện Sức khỏe Tâm thần Mỹ, rối loạn phổ tự kỷ ở trẻ em là một rối loạn tâm thần thuộc loại phát triển thần kinh biểu hiệu từ rất sớm. Đây là một tình trạng khiếm khuyết phức tạp về các khả năng phát triển của não bộ, 75% tiến triển trong ba năm đầu đời của trẻ, thường xảy ra ở bất kỳ đứa trẻ nào, không phụ thuộc vào dân tộc, xã hội hay trình độ của cha tự kỷ là những rối nhiễu đặc hiệu trong việc không thể thiết lập mối quan hệ tương tác với xã hội bên ngoài, làm cho trẻ mất khả năng giao tiếp, đặc biệt là về phương diện ngôn ngữ và có thể gây tổn thương cho chính đứa trẻ vì những hành động tự gây hại, quậy phá đó. Vì vậy, nhận biết các dấu hiệu trẻ tự kỷ rất quan trọng để hỗ trợ điều trị kịp thời. Các hành vi của trẻ tự kỷ gồm nhiều phương diện khác nhau, như ngôn ngữ, hành động, cảm xúc... Biểu hiện của trẻ tự kỷ về mặt cảm xúcNgay từ khi còn nhỏ, trẻ không giao tiếp bằng mắt với mẹ, không nhìn thẳng người đối diện hoặc nhìn như không có ai ở đó, thường lơ đễnh, không phân biệt được người quen và người lạ. Trẻ tự kỷ thường không theo mẹ, không bày tỏ yêu thương hay quyến luyến với mẹ, đặc biệt không biết vui mừng khi bố mẹ đi đâu Các hành vi của trẻ tự kỷ về mặt ngôn ngữMột trong các hành vi của trẻ tự kỷ đó là nói những âm đơn điệu, không có ngữ điệu, hay nhại lời người khác và thường nói lẩm bẩm một mình, đôi khi phát ra những âm thanh vô nghĩa lặp đi lặp lại. Trẻ không biết bắt chước người lớn để làm cũng như nói theo và khi có bất kỳ nhu cầu gì trẻ không biết diễn đạt làm cho người lớn hiểu mình cần gì, phải gợi ý hướng dẫn nhiều lần trẻ mới có thể làm theo được. Một trong các hành vi của trẻ tự kỷ đó là không biết bắt chước người lớn để làm cũng như nói theo Nhận biết dấu hiệu trẻ tự kỷ thông qua các hành viBiểu hiện của trẻ tự kỷ thường là cử động tay chân lặp lại hoặc rập khuôn, cuốn hút với các hoạt động, nghi thứcThích chơi với một tâm đến chi tiết của đồ chơi hơn là cách sử dụng đồ chơi thế hoạt động và chơi với đồ dùng trong nhà quá thích đu đưa thân mình, hoạt động chân tay quá thích đi trên đầu ngón tự kỷ rất ghét sự thay đổi và sẽ có phản ứng giận dữ hay rất hoảng sợ khi đồ đạc trong nhà thay đổi hoặc khi mẹ thay đổi kiểu tóc,...Đối với những kích thích từ môi trường bên ngoài, trẻ tự kỷ có khi đáp ứng quá mức hoặc kém đáp ứng. Trẻ có thể cảm thấy thú vị với những âm thanh nhỏ tự tạo ra như gõ vào đồ vật bên tai, gãi nhưng lại lờ đi những lời nói của cha mẹ,...Trẻ không biết sợ hãi khi gặp nguy hiểm, có thể tự gây thương tích cho mình như cào cấu, nhổ tóc, đánh vào đầu,...Trẻ có thể không ngủ vào ban đêm nhưng ban ngày vẫn tràn đầy năng có thể có những rối loạn vận động như chậm đi do giảm trương lực cơ, cử động bất thường, đập đầu, nhăn nhó mặt, xua tay,...Cho đến nay vẫn chưa có cách chữa khỏi hoàn toàn chứng phổ tự kỷ, tuy nhiên trẻ tự kỷ khi được tiếp cận sớm các phương pháp điều trị có thể giúp cải thiện và hòa nhập xã hội tốt hơn. Vì vậy, khi quan sát thấy trẻ có những biểu hiện trên, cha mẹ cần cho con đi khám càng sớm càng tốt để được chẩn đoán và can thiệp phù hợp. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Bé 24 tháng tuổi không thích tiếp xúc, bám mẹ không rời khi đến chỗ đông người có phải dấu hiệu của bệnh tự kỷ không? Những dấu hiệu cảnh báo trẻ có nguy cơ tự kỷ Hướng dẫn trực quan về tự kỷ Thanh niên là lứa tuổi phát triển sự tự lập. Thông thường, thanh thiếu niên thực hiện tính độc lập của mình bằng cách chất vấn hoặc thách thức các quy tắc của cha mẹ hoặc người giám hộ, đôi khi dẫn đến việc phá vỡ quy tắc. Cha mẹ và các chuyên gia y tế phải phân biệt những sai sót trong phán đoán không thường xuyên, là điển hình và được mong đợi, với một mức độ hành vi sai cần sự can thiệp chuyên môn. Nên dựa vào mức độ nghiêm trọng và tần suất vi phạm. Ví dụ như tần suất uống rượu liên tục và tham gia vào việc trốn học hoặc trộm cắp thường xuyên so với đôi lần thực hiện hành vi này. Các dấu hiệu cảnh báo về rối loạn hành vi gây rối là sự suy giảm các tính năng bao gồm giảm kết quả học tập ở trường và bỏ trốn khỏi nhà. Đặc biệt quan tâm là thanh thiếu niên gây thương tổn nghiêm trọng cho bản thân hoặc người khác hoặc sử dụng vũ khí trong một cuộc thanh thiếu niên tự lập và năng động hơn nhiều so với trẻ nhỏ, chúng thường thoát khỏi sự kiểm soát trực tiếp của người lớn. Trong những trường hợp này, thanh thiếu niên 'xác định hành vi của chính mình, có thể bị ảnh hưởng bởi sự trưởng thành và chức năng điều hành. Cha mẹ nên đưa ra sự hướng dẫn thay vì kiểm soát trực tiếp hành vi của trẻ. Chấp nhận rủi ro, tham gia vào các hành vi cực đoan và kiểm tra khả năng đều là những hành động bình thường trong tuổi vị thành niên. Thanh thiếu niên cảm thấy ấm áp và hỗ trợ từ cha mẹ ít có khả năng phát triển các vấn đề nghiêm trọng, cũng như những người mà cha mẹ truyền đạt những kỳ vọng rõ ràng về hành vi của con cái họ và thể hiện việc thiết lập và giám sát giới hạn nhất quyền của cha mẹ là cách cha mẹ giúp trẻ tham gia vào việc thiết lập kỳ vọng và các quy tắc của gia đình. Phong cách giáo dục này trái ngược với việc nuôi dậy trẻ quá nghiêm khắc hoặc quá dễ dãi và có thể thúc đẩy trẻ phát triển hành vi trưởng quyền của cha mẹ là xây dựng một hệ thống đặc quyền một cách từ từ, trong đó, thanh thiếu niên ban đầu được giao cho các công việc với trách nhiệm nhỏ và một chút tự do ví dụ như tự chăm sóc vật nuôi, dọn nhà, mua sắm quần áo, trang trí phòng mình, quản lý tiền thưởng, đến các sự kiện với bạn bè, lái xe. Nếu thanh thiếu niên xử lý tốt trách nhiệm hoặc đặc quyền trong một khoảng thời gian, sẽ có nhiều đặc quyền hơn. Ngược lại, nếu trẻ làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm, trẻ có thể mất các đặc quyền đã có trước đó. Mỗi đặc quyền mới cần được giám sát chặt chẽ bởi cha mẹ để đảm bảo thanh thiếu niên tuân thủ các quy tắc đã được thỏa thuận trước đó. Việc nuôi dạy con cái có thẩm quyền liên quan đến việc thiết lập giới hạn, điều này rất quan trọng đối với sự phát triển lành mạnh của thanh thiếu số cha mẹ và con cái xung đột với hầu hết mọi vấn đề trong cuộc sống. Trong những tình huống này, vấn đề cốt lõi là kiểm soát một cách thật sự. Thanh thiếu niên muốn cảm thấy sự kiểm soát trong cuộc sống của họ, nhưng cha mẹ không sẵn sàng từ bỏ việc kiểm soát cuộc sống của con họ. Trong những tình huống này, mọi người có thể có lợi từ việc cha mẹ thúc đẩy và tập trung vào những nỗ lực trong các hành động của trẻ vị thành niên ví dụ như đi học, tuân thủ trách nhiệm với gia đình hơn là sự biểu cảm của trẻ ví dụ cách ăn mặc, kiểu tóc, các thú vui giải trí. Rối loạn hành vi gây rối thường gặp ở trẻ vị thành niên. Vấn đề phát triểnTham gia các băng đảngTiếp cận với vũ khíSử dụng chất gây nghiệnNghèo nànCó rất ít bằng chứng cho thấy mối quan hệ giữa bạo lực và bất thường về gen hoặc bất thường nhiễm sắc tham gia các băng đảng thường đi kèm với hành vi bạo lực. Sự tham gia các băng đảng thường đi kèm với hành vi bạo lực Các băng nhóm thanh niên là các tổ chức nhỏ tự thành lập từ 3 thành viên trở lên, thường từ 13 đến 24 tuổi. Các băng đảng thường dùng tên và nhận diện thông qua các ký hiệu, chẳng hạn như phong cách trang phục quần áo, sử dụng một số dấu hiệu tay, một số hình xăm, hoặc hình vẽ nổi. Một số băng đảng yêu cầu các thành viên tương lai thực hiện hành động bạo lực trước khi ra nhập băng chống bạo lực bắt đầu từ thời thơ ấu với kỷ luật không bạo lực. Hạn chế cho trẻ tiếp xúc với bạo lực thông qua phương tiện truyền thông và trò chơi điện tử là một phương pháp hữu ích vì việc tiếp xúc với những hình ảnh bạo lực này đã làm cho trẻ em ghi nhớ và khiến trẻ em chấp nhận bạo lực như là một phần của cuộc sống. Trẻ em ở độ tuổi đi học cần được tiếp cận với môi trường học đường an toàn. Thanh thiếu niên không nên tiếp cận vũ khí mà không có giám sát và nên được dạy cách tránh những tình huống nguy cơ cao như địa điểm hoặc những nơi mà người khác có vũ khí hoặc đang sử dụng rượu hay ma túy và cách giải quyết những tình huống căng cả các nạn nhân của bạo lực nên được khuyến khích nói chuyện với cha mẹ, giáo viên và thậm chí cả bác sĩ của họ về những vấn đề mà họ đang gặp phải. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền. Xâm hại tình dục trẻ em chẳng còn là vấn đề xa lạ trong xã hội hiện nay, đặc biệt là khi cuộc sống ngày càng hiện đại, tệ nạn ngày càng nhiều và tình trạng tha hóa đạo đức vẫn diễn ra một cách nghiêm trọng. Chính bởi vậy mà hiểu biết về xâm hại tình dục trẻ em cần được quan tâm và lan tỏa rộng rãi hơn, những hành vi thế nào là xâm hại trẻ em? 1. Xâm hại tình dục trẻ em là gì? Thế nào là xâm hại trẻ em? Theo Luật trẻ em 2016, xâm hại tình dục trẻ em được định nghĩa là việc dùng vũ lực, hay đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến quan hệ tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em, và sử dụng trẻ em vào mục đích thương mại như mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức. Xâm hại tình dục trẻ em là tình trạng xảy ra không ít trong xã hội hiện nay Hành vi xâm hại tình dục có thể thay đổi từ việc sờ mó bộ phận sinh dục của trẻ, thủ dâm, dùng miệng tiếp xúc với bộ phận sinh dục, sử dụng ngón tay động chạm vào bộ phận sinh dục của trẻ, quan hệ tình dục với trẻ qua đường sinh dục hoặc hậu môn. Ngoài ra, việc lạm dụng tình dục trẻ em không chỉ dừng lại ở các động chạm cơ thể mà còn bao gồm cả những hành vi không động chạm với cơ thể như khoe bộ phận sinh dục cho trẻ nhìn; kể cho trẻ nghe về quan hệ tình dục, cho trẻ xem phim, hoặc các loại truyện khiêu dâm, hướng dẫn, kích thích tình dục ở trẻ, có khi là rình xem trộm hoặc sử dụng hình ảnh khiêu dâm trẻ em. 2. Những thủ phạm xâm hại tình dục trẻ em thường là những đối tượng nào? Nhiều người nghĩ những đối tượng xâm hại tình dục trẻ em thường là những kẻ biến thái, những tên tội phạm vô đạo đức ngoài xã hội, chính vì thế mà thường hay chủ quan. Thế nhưng mấy ai ngờ được rằng đó có khi lại là những người mà chúng ta tin tưởng nhất. Người phạm tội xâm hại tình dục trẻ em không hẳn là những người bị loạn dục với trẻ em, trừ khi họ có một ham muốn tình dục mạnh mẽ ở trẻ em trước tuổi dậy thì. Có thể hiểu là không phải ai bị loạn dục với trẻ em thì chắc chắn sẽ có hành vi tình dục với trẻ em. Đặc biệt, theo các thống về đối tượng thường gây ra xâm hại tình dục trẻ em cũng như qua các vụ việc về vấn đề này đã xảy ra, thủ phạm thường gặp nhất lại chính là những người quen biết bạn bè của gia đình, hàng xóm, người trông trẻ,… hoặc thậm chí chính là những người thân trong gia đình. Trường hợp là người lạ mặt chỉ chiếm khoảng 10% và những người bị loạn dục trong số đó chỉ chiếm thiểu số. 3. Sự khác nhau giữa xâm hại tình dục trẻ em và xâm hại trẻ em là gì? Nếu như xâm hại tình dục trẻ em là một hành vi cụ thể nào đó liên quan đến bộ phận sinh dục của trẻ, thì xâm hại trẻ em còn rộng hơn thế và xâm hại trẻ em bao hàm cả xâm hại tình dục trẻ em. Vậy xâm hại trẻ em là gì? Xâm hại trẻ em là hành vi gây tổn hại nghiêm trọng đến thể xác và tinh thần Theo Luật trẻ em 2016, xâm hại trẻ em là hành vi gây tổn hại nghiêm trọng về mặt thể chất, tâm lý, tình cảm, cũng như danh dự, nhân phẩm của trẻ em dưới các hình thức bạo lực, bóc lột, xâm hại tình dục, mua bán, bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em và các hình thức gây tổn hại khác nữa. Trong luật xâm hại trẻ em mới năm 2017 và có hiệu lực từ 1/1/2018 được quy định trong Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi và bổ sung thì bên cạnh hành vi hiếp dâm và dâm ô thì mọi hành vi “xâm hại tình dục khác” với người dưới 16 tuổi sẽ cấu thành tội phạm. Hi vọng rằng với những thông tin được cung cấp trong bài viết có thể giúp mọi người hiểu biết hơn về khái niệm xâm hại trẻ em cũng như xâm hại tình dục trẻ em, từ đó có thể bảo vệ tốt cho con em của mình khỏi những nguy cơ tác động xấu trong xã hội. Xem thêm Trẻ em lang thang cơ nhỡ rất cần sự quan tâm Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu về tâm một báo cáo gần đây nêu chi tiết về xu hướng gia tăng tỷ lệ tử vong do tự tử ở Hoa Kỳ NCHS Brief số 398, tháng 2 năm 2021, nữ giới từ 10 đến 14 tuổi cho thấy tỷ lệ tử vong do tự tử tăng từ 0,5% năm 1999 lên 3,1% vào năm 2019; ở nam giới từ 10 đến 14 tuổi tỷ lệ tăng từ 1,9% lên 3,1%. Một số yếu tố có thể góp phần vào sự gia tăng các lần toan tự sát, bao gồm sự gia tăng trầm cảm ở tuổi vị thành niên, đặc biệt là ở trẻ em gái 1 Tài liệu tham khảo Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu... đọc thêm ; tăng đơn thuốc opioid của cha mẹ 2 Tài liệu tham khảo Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu... đọc thêm ; tỷ lệ tự tử ở người lớn gia tăng dẫn đến ý thức về tự tử của thanh niên ngày càng cao 3 Tài liệu tham khảo Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu... đọc thêm ; mối quan hệ ngày càng mâu thuẫn với cha mẹ; và các yếu tố gây căng thẳng trong học tập 4, 5 Tài liệu tham khảo Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu... đọc thêm . 1. Mojtabai R, Olfson M, Han B National trends in the prevalence and treatment of depression in adolescents and young adults. Khoa nhi 1386e20161878, 2016. doi Brent DA, Hur K, Gibbons RD Association between parental medical claims for opioid prescriptions and risk of suicide attempt by their children. JAMA Psychiatry 769941-947, 2019. doi Wang J, Sumner SA, Simon TR, et al Trends in the incidence and lethality of suicidal acts in the United States, 2006 to 2015. JAMA Psychiatry 777684-693, 2020. doi 4. Shain B, Committee on Adolescence Suicide and suicide attempts in adolescents. Pediatrics 1381e20161420, 2016. doi Bilsen J Suicide and youth Risk factors. Front Psychiatry 9540, 2018. doi 7. Bridge JA, Asti L, Horowitz LM, et al Suicide trends among elementary school-aged children in the United States from 1993 to 2012. JAMA Pediatr1697673-677, 2015. doi Các loại thuốc khác cũng đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm báo cáo là làm tăng nguy cơ dẫn đến cảnh báo hộp đen. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chẳng hạn như sử dụng thuốc chống động kinh, rất khó xác định vì bản thân chứng động kinh có liên quan đến nguy cơ tự tử tăng gấp 5 lần nếu không có thuốc chống động yếu tố góp phần khác có thể bao gồm Thiếu cơ cấu và ranh giới, dẫn đến một cảm giác thiếu sự chỉ dẫnÁp lực của cha mẹ gay gắt để thành công kèm theo cảm giác thất vọng so với mong đợiĐộng cơ thường xuyên cho một nỗ lực tự tử là một nỗ lực để thao tungs hoặc trừng phạt những người khác với những tưởng tượng "Bạn sẽ được xin lỗi sau khi tôi đã chết."Các yếu tố bảo vệ bao gồm Dễ dàng tiếp cận các can thiệp lâm sàngHỗ trợ gia đình và cộng đồng sự kết nốiKỹ năng giải quyết xung độtNiềm tin vào văn hoá và tôn giáo làm giảm tự sát can thiệp khủng hoảng, có thể bao gồm cả nhập việnTâm lý trị liệu Có thể dùng thuốc để điều trị rối loạn cơ bản, thường kết hợp với liệu pháp tâm lýGiới thiệu về tâm thầnMọi nỗ lực tự tử là một vấn đề nghiêm trọng đòi hỏi sự can thiệp chu đáo và thích đáng. Một khi mối đe dọa trực tiếp đến cuộc sống đã được gỡ bỏ, cần quyết định về sự cần thiết phải nằm viện. Quyết định này liên quan đến việc cân bằng mức độ rủi ro với khả năng hỗ trợ của gia đình. Việc nhập viện ngay cả các khu vực y tế hoặc nhi khoa mở với điều dưỡng trực đặc biệt là hình thức bảo vệ ngắn hạn nhất và thường được chỉ định khi trầm cảm, loạn thần, hoặc nghi ngờ cả năng gây chết của ý định tự tử có thể được đánh giá dựa trên những điều sau đây Mức độ tiên đoán được bằng chứng ví dụ bằng cách viết một lá thư tự sátCác bước thực hiện để ngăn ngừa phát hiệnPhương pháp được sử dụng ví dụ, vũ khí gây chết người hơn thuốcMức độ tự gây thương tích bền vữngCác tình huống hoặc các yếu tố kết tủa xung quanh sự nỗ lựcTrạng thái tinh thần vào thời điểm đó sự kích động cấp tính đặc biệt đáng quan tâmMới được ra viện gần đâyGần đây ngưng các loại thuốc thần kinhViệc giới thiệu đến các nhà tâm thần thường là cần thiết để cung cấp liệu pháp điều trị và liệu pháp tâm lý thích hợp. Liệu pháp hành vi nhận thức để ngăn ngừa tự sát và trị liệu hành vi biện chứng có thể thích hợp hơn. Điều trị thành công nhất nếu người chăm sóc chính tiếp tục tham dựng lại tinh thần và khôi phục trạng thái cân bằng tình cảm trong gia đình là rất cần thiết. Phản ứng của cha mẹ tiêu cực hoặc không hỗ trợ là một mối quan tâm nghiêm trọng và có thể gợi ý cần một sự can thiệp sâu hơn như địa điểm ở ngoài nhà. Một kết quả tích cực là rất có thể nếu gia đình cho thấy tình yêu và sự quan tâm. 1. Hesdorffer DC, Ishihara L, Webb DJ, et al Occurrence and recurrence of attempted suicide among people with epilepsy. JAMA Psychiatry 73180-86. 2016. doi Các thành viên trong gia đình của trẻ em và vị thành niên đã tự tử có phản ứng phức tạp đối với việc tự sát, bao gồm đau buồn, cảm giác tội lỗi và trầm cảm. Việc tư vấn có thể giúp họ hiểu được bối cảnh tâm thần của tự sát và suy nghĩ và thừa nhận những khó khăn của đứa trẻ trước khi tự khi tự sát, nguy cơ tự sát có thể tăng lên ở những người khác trong cộng đồng, đặc biệt là bạn bè và bạn cùng lớp của người tự sát. Các nguồn lực ví dụ, hướng dẫn đối phó với sự mất mát khi tự tử có sẵn để giúp các trường học và cộng đồng sau khi tự tử. Các viên chức nhà trường và cộng đồng có thể sắp xếp để các chuyên viên chăm sóc sức khoẻ tâm thần sẵn sàng cung cấp thông tin và tư vấn. Các vụ tự tử thường xảy ra trước những thay đổi về hành vi ví dụ, tâm trạng thất vọng, lòng tự trọng thấp, rối loạn giấc ngủ và chán ăn, không tập trung, trốn học, than phiền và lo lắng về tự sát, thường dẫn đến trẻ em hoặc vị thành niên đến văn phòng bác sỹ. Những tuyên bố như "Tôi ước gì tôi chưa bao giờ được sinh ra" hoặc "tôi muốn đi ngủ và không bao giờ thức dậy" nên được xem xét nghiêm túc như những chỉ điểm về ý định tự sát. Một mối đe dọa hoặc nỗ lực sát tử thể hiện một sự truyền thông quan trọng về cường độ trải nghiệm sự tuyệt nhận ra sớm các yếu tố nguy cơ được đề cập ở trên có thể giúp ngăn ngừa một nỗ lực tự sát. Để đối phó với những tín hiệu ban đầu, đe doạ hoặc cố gắng tự sát, hoặc hành vi nguy cơ nghiêm trọng, can thiệp mạnh mẽ là thích hợp. Vị thành niên nên được đặt câu hỏi trực tiếp về cảm giác không vui hoặc tự hủy hoại; việc đặt câu hỏi trực tiếp như vậy có thể làm giảm nguy cơ tự tử. Bác sĩ không nên cung cấp sự trấn an không có căn cứ, điều này có thể làm suy giảm uy tín của bác sĩ và làm giảm lòng tự trọng của vị thành niên. Các bác sĩ nên sàng lọc khả năng tự tử trong cơ sở y tế. Nghiên cứu được công bố vào năm 2017 chỉ ra rằng 53% số bệnh nhi đến khoa cấp cứu vì lý do y tế không liên quan đến tự tử được sàng lọc dương tính với tự tử 1 Tài liệu tham khảo về phòng ngừa Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu... đọc thêm . Cũng có bằng chứng cho thấy hầu hết người lớn và trẻ em cuối cùng chết vì tự tử đã được chăm sóc về mặt y tế vào năm trước khi chết 2, 3 Tài liệu tham khảo về phòng ngừa Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu... đọc thêm . Bắt đầu từ tháng 7 năm 2019, Ủy ban hỗn hợp đã yêu cầu các bệnh viện đánh giá tình trạng tự tử trong khuôn khổ của điều trị tiêu chuẩn trong y khoa 4, 5 Tài liệu tham khảo về phòng ngừa Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu... đọc thêm . Ngoài việc sàng lọc về tự tử, các bác sĩ nên giúp bệnh nhân làm những điều sau đây, có thể giúp làm giảm nguy cơ tự sát Tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tâm thầnNhận sự hỗ trợ từ gia đình và cộng đồngTìm hiểu cách giải quyết mâu thuẫn một cách hòa bình Một môi trường nuôi dưỡng hỗ trợSẵn sàng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tâm thầnMột môi trường xã hội được đặc trưng bởi sự tôn trọng các khác biệt cá nhân, sắc tộc và văn hoá 1. Ballard ED, Cwik M, Van Eck K, et al Identification of at-risk youth by suicide screening in a pediatric emergency department. Prev Sci 182;174-182, 2017. doi Oein-Odegaard C, Reneflot A, Haugue LI Use of primary healthcare services prior to suicide in Norway A descriptive comparison of immigrants and the majority population. BMC Health Serv Res191508, The Joint Commission Detecting and treating suicide ideation in all settings. Sentinel Alert Event, 561-7, Brahmbhatt K, Kurtz BP, Afzal KI, et al Suicide risk screening in pediatric hospitals Clinical pathways to address a global health crisis. Psychosomatics 6011-9, 2019. doi 6. Bridge JA, Greenhouse JB, Ruch D, et al Association between the release of Netflix's 13 Reasons Why and suicide rates in the US An interrupted time series analysis. J Am Acad Child Adolesc Psychiatry 592236-243. doi Brent DA Master clinician review Saving Holden Caulfield Suicide prevention in children and adolescents. J Am Acad Child Adolesc Psychiatry58125-35, 2019. Tự sát rất hiếm ở trẻ ở giai đoạn tiền dậy thì nhưng là nguyên nhân thứ 2 hoặc thứ 3 gây tử vong ở trẻ từ 15 đến 19 xét điều trị bằng thuốc đối với bất kỳ rối loạn cơ bản nào ví dụ rối loạn khí sắc, loạn thần; tuy nhiên, thuốc chống trầm cảm có thể làm tăng nguy cơ tự tử ở một số vị thành niên, do đó phải theo dõi cẩn thận việc sử dụng thuốc và chỉ cung cấp thuốc số lượng kiếm những thay đổi cảnh báo sớm về hành vi ví dụ như bỏ học, ngủ hoặc ăn quá nhiều hoặc quá ít, đưa ra các tuyên bố đề xuất ý định tự tử, có hành vi rất nguy hiểm. Sau đây là một số công cụ sàng lọc bằng tiếng Anh về tự tử trong cơ sở y tế có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của các tài nguyên này. Ask Suicide-Screening Questions ASQ Toolkit This five-question screening tool is designed to be used by doctors to screen children and adolescents for suicide risk for immediate, appropriate Suicide Severity Rating Scale C-SSRS Comprehensive information on a unique suicide risk assessment tool that is endorsed by the World Health Organization, the Food and Drug Administration, and the Centers for Disease Control and Prevention, among other prestigious Health Questionnaire PHQ-9 Tool Along with this tool, there is in-depth information on when and why to use it as well as the pearls and pitfalls associated with its use.

hành vi của trẻ