MẪU DẤU MẬT. (Ban hành kèm theo Thông tư số 33/2015/TT-BCA ngày 20 tháng 7 năm 2015 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28 tháng 3 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước) 1.
Những Bí Mật Đời Tư Ít Ai Biết Của TỂ TƯỚNG LƯU GÙ - Không Giống Trên Phim ẢnhNội dung: Trong bộ máy quan chế thời Phong kiến, Tể tướng là một chức
Điều 38 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền bí mật đời tư như sau: "1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong
Từ một bản án về bí mật đời tư. (PL)- Hiến pháp 2013 khẳng định quyền bất khả xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình. Cách đây chưa lâu, TAND quận 3 (TP.HCM) từng xét xử vụ kiện liên quan đến bí mật đời tư xuất phát từ một bài báo đưa
Chào mừng các bạn đã đến với kênh Khám Phá Đó Đây trong video: ️ 8 Bí Mật Đời Tư Cực Hot của Dekhi Dekisugi Mà Không Phải Ai Cũng Biết | Khám Phá Đó
. Điện thoại của hai người liên tục bị số máy lạ gọi đến quấy rối. Đời sống riêng tư của họ bị xâm hại nặng nề. Thậm chí có người còn quy kết, đó là mối quan hệ “vì tiền”. Để rồi mới đây trên trang cá nhân, người vợ cho biết, chị đã suy sụp tinh thần vì phải gánh chịu áp lực quá lớn từ dư luận suốt những ngày qua. Không ai có thể sống hộ được cho người khác. Mỗi người có quyền lựa chọn cho họ một cuộc hôn nhân phù hợp, tôn trọng nhau, tuân thủ pháp luật. Đây không phải là lần đầu một cuộc hôn nhân chênh lệch tuổi tác hay hình thức lại trở thành chủ đề được nhiều người quan tâm, bàn tán. Tuy nhiên, bên cạnh ý kiến chia sẻ, thông cảm với câu chuyện đời, gửi lời chúc phúc đến những người trong cuộc thì một số người hiếu kỳ lại lập tức đi truy tìm địa chỉ nơi ở, tìm hiểu gia cảnh, thói quen sinh hoạt, tình trạng sức khỏe,... thậm chí thông tin cả về cha mẹ, họ hàng của nhân vật có liên quan, rồi từ đó tùy tiện đăng tải công khai trên mạng xã hội, kèm theo những lời bình luận, suy đoán vô căn cứ. Từ đây, một số cư dân mạng lập tức nhảy vào và tự cho mình cái quyền phán xét, bình phẩm một cách vô lối, thậm chí thô bỉ. Hành vi này không chỉ làm tổn thương, xúc phạm đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của người khác mà còn vi phạm pháp luật. Cụ thể theo Hiến pháp năm 2013, tại khoản 1, Điều 21, Chương II quy định về Quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân, khẳng định “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn”. Nội dung này đã được cụ thể hóa tại Bộ luật Dân sự năm 2015, theo đó “Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác” khoản 2, Điều 38. Dù pháp luật quy định rõ ràng như vậy, nhưng trên thực tế không phải ai cũng có ý thức thật đầy đủ rằng, với hành vi thiếu tôn trọng, tùy tiện đem bí mật đời tư của người khác ra để đùa cợt, chỉ trích sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Rất có thể một ngày nào đó, họ cũng sẽ trở thành nạn nhân của nạn xâm hại đời tư từ lối sống vô trách nhiệm của chính bản thân mình.
– Điều 21 Hiến pháp năm 2013 có quy định “1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn 2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác”. – Tại Điều 38 BLDS hiện hành, có quyền bí mật đời tư, như sau “1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. 3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.” Khoản 2 Điều 46 Luật GDĐT quy định“Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” – Điều 25 Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 có quy địnhvề trách nhiệm của thầy thuốc “… phải giữ bí mật về những điều có liên quan đến bệnh tật hoặc đời tư mà mình được biết về người bệnh”. – Điều 125 BLHS có quy định Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác, như sau “1. Người nào chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính hoặc có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ một triệu đồng đến năm triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ một năm đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm a Có tổ chức; b Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c Phạm tội nhiều lần; d Gây hậu quả nghiêm trọng; đ Tái phạm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai triệu đồng đến hai mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.” Do luật và các văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chưa có hướng dẫn cụ thể và cũng không quy định chi tiết thế nào là “bí mật đời tư”, nên đây cũng là vấn đề pháp lý gây tranh cãi nhiều nhất. Ý kiến chung nhất của các chuyên gia thì cho rằng “bí mật” là thông tin cần được che giấu, không công khai, chỉ một số ít người liên quan được biết. Ví dụ, nếu một đám cưới diễn ra công khai, nhiều người biết đến, tất nhiên sẽ không là chuyện “bí mật”. Còn vì sao có lễ cưới đó, có thể riêng tư vì một lý do tế nhị nào đó. Tuy nhiên nếu lý do này được nêu công khai từ một bên gia đình cô dâu hay gia đình chú rể của lễ cưới ấy, có lẽ mọi chuyện cũng khó thể gọi là “bí mật đời tư”. “Bí mật đời tư” là một cụm từ Hán – Việt, có nguồn gốc từ chữ Hán và được Việt hóa. Do đó, có thể hiểu “bí mật” là những chuyện kín đáo, chuyện muốn che giấu, không muốn ai biết. “Tư” ở đây có nghĩa là riêng, việc riêng, của riêng. Như vậy, “bí mật đời tư” là chuyện thầm kín của một cá nhân nào đó. Bởi pháp luật hiện hành tuy có quy định nhưng không rõ ràng, thiếu cụ thể , nên đã gây khó khăn cho người dân khi muốn tiếp cận những thông tin cần thiết, mà theo họ, là “chứng cứ” cần thiết và quan trọng của vụ kiện dân sự, chính vì lẽ đó, trong nhiều trường hợp cơ quan chức năng đã vô tình đẩy người đi kiện vào “ngõ cụt” chỉ vì thiếu thống nhất chung về nhận thức thế nào là “quyền bí mật đời tư”. Dưới đây là trường hợp cụ thể, tác giả xin được dẫn chứng để minh họa cho nhận định trên. Theo đơn khởi kiện ngày 13/02/2014 của bà Nguyễn Thị L. trú tại ấpT, xã huyện C, tỉnh T, trình bày Ngày 12/5/1991 cha của bà là cụ Nguyễn H. có nhận sang nhượng của cụ Phạm Văn V. cùng ngụ tại địa chỉ trên một thửa đất có diện tích 187m2 chiều rộng 7,5m x chiều dài 25m với số tiền là đồng, nội dung giao dịch này được thể hiện trên giấy viết tay có chữ ký của bên sang nhượng, bên nhận sang nhượng cùng hai người làm chứng là ông Dương Văn Nh., Phạm Văn S. và được lãnh đạo UBND xã ký xác nhận vào ngày 12/10/1991. Sau khi lập hồ sơ thủ tục theo quy định, ngày 11/10/1999 bà L được UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất GCNQSDĐ với diện tích 187m2 loại đất thổ quả, thuộc thửa 2760, tờ bản đố số 01, tọa lạc tại ấp T, xã huyện C, tỉnh T. Cũng theo hồ sơ kê khai xin cấp GCNQSDĐ của bà L. thể hiện Chiều rộng hai cạnh của thửa đất tiếp giáp với Quốc lộ IA và tiếp giáp với mí gò đất đều là 7,5m, nhưng qua đo đạc thực tế sau khi phát sinh tranh chấp cho thấy, chiều rộng tiếp giáp với Quốc lộ IA là 7,38m; chiều rộng tiếp giáp mí gò đất chỉ còn là 6,72m. Sở dĩ có sự khác biệt về số liệu đo đạc trên thực tế với số liệu trích lục bản đồ vị trí thể hiện trên GCNQSDĐ, là do bà Đoàn Thị N. năm 2004 khi làm nhà ở cạnh thửa đất của bà L. đã lấn chiếm, cụ thể chiều rộng thửa đất tiếp giáp Quốc lộ IA, bị bà N. lấn qua 0,11m với chiều dài 8,8m; chiều rộng tiếp giáp mí gò bị bà N. lấn qua 0,78m với chiều dài 6,95m. Bà L. đề nghị TAND huyện C tuyên buộc cụ V. và bà N. có trách nhiệm giao trả toàn bộ phần diện tích đất đã lấn chiếm gần 7m2. Phía bị đơn là cụ Phạm Văn V. và bà Đoàn Thị N. trình bày Việc cụ V. sang nhượng cho cụ H. tại thời điểm khoảng tháng 5/1991 một thửa đất với giá đồng là đúng sự thật, nhưng diện tích sang nhượng chỉ là 120m2 chiều rộng 6,0m; chiều dài 20,0m, chứ không phải diện tích 187m2 như trong Đơn xin sang nhượng đất, mà phía bà L. cung cấp. Hơn nữa, hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ cho bà L. có dấu hiệu giả chữ ký, vì bản thân cụ V. và bà N. cũng như những thành viên khác trong gia đình, không ai ký tên xác nhận “tứ cận” giáp ranh với phần đất của người kế bên vào hồ sơ kê khai xin cấp GCNQSDĐ của bà L., điều đó dẫn đến việc gia đình bà không hề hay biết việc phía bà L. làm thủ tục đề nghị UBND huyện C cấp GCNQSDĐ, mà cha của bà đã sang nhượng lên đến 187m2. Để có chứng cứ giao nộp cho Tòa án để bảo vệ quan điểm của mình, bà Đoàn Thị N. làm đơn gửi đến Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T, yêu cầu trích lục hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất và hồ sơ cấp GCNQSDĐ đối với bà Nguyễn Thị L. vào năm 1999. Ngày 17/12/2015, Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T, ban hành Công văn số 4314/TL-VPĐK trả lời yêu cầu của bà Đoàn Thị N., mà theo đó, tại điểm 2 của Công văn này có viết “ …Căn cứ vào Điều 38 của Bộ luật Dân sự ngày 14/6/2005 quy định như sau“việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Do đó, Văn phòng Đăng ký đất đai không thể trích lục hồ sơ của bà Nguyễn Thị L. theo yêu cầu của bà được.”” Vấn đề đặt ra, việc Văn phòng Đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T, viện dẫn Điều 38 BLDS và cho rằng nếu thực hiện nội dung yêu cầu trích lục hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ đối với bà Nguyễn Thị L. là xâm phạm đến quyền bí mật đời tư của đương sự, nên đã từ chối yêu cầu của bà N. có phù hợp với quy định của pháp luật không? Xoay quanh vấn đề này, hiện có các loại quan điểm sau – Quan điểm thứ nhất Bí mật đời tư của cá nhân được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, bao gồm những thông tin, tài liệu, hình ảnh về cá nhân, việc làm, tình yêu, gia đình, các mối quan hệ… gắn liền với một cá nhân mà người này giữ kín, không muốn để “lộ ra” cho người khác biết. Nói cách khác, bí mật đời tư có thể hiểu là chuyện riêng của người này mà không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư” có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. Ví dụ con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín…”. Vì thế nên, bất cứ ai thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư cá nhân người khác, không phân biệt những thông tin, tư liệu ấy đang được cá nhân đó giữ bí mật hay đã được cá nhân đó để lộ ra mà không được sự đồng ý của cá nhân đó đều là xâm phạm bí mật đời tư. Hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ đối với bà Nguyễn Thị L. là vấn đề thuộc về quyền riêng tư cá nhân, nên việc Văn phòng Đăng ký đất đai từ chối đáp ứng yêu cầu của bà N. tại Công văn số 4314/TL-VPĐK là có căn cứ. – Quan điểm thứ hai Bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu gọi chung là thông tin về tinh thần, vật chất, quan hệ xã hội hoặc những thông tin khác liên quan đến cá nhân trong quá khứ cũng như trong hiện tại, được pháp luật bảo vệ và những thông tin đó được bảo mật bằng những biện pháp mà pháp luật thừa nhận. Mặc dù Điều 38 BLDS không đưa ra khái niệm bí mật đời tư, nhưng theo lẽ thông thường có thể hiểu bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân mà cá nhân đó không muốn cho người khác biết. Trong hoàn cảnh pháp luật hiện chưa có quy định rõ ràng về khái niệm và phạm vi “bí mật đời tư ” thì xét ở góc độ nghĩa của từ ngữ theo từ điển tiếng Việt, bí mật đời tư của cá nhân được hiểu là những gì thuộc về đời sống riêng tư của cá nhân thông tin, tư liệu… được giữ kín, không công khai, không tiết lộ ra. Còn nếu các thông tin, tư liệu cá nhân đã được công khai, lộ ra thì không còn là bí mật đời tư nữa. Do đó, cần hiểu bí mật đời tư của cá nhân là những thông tin, tư liệu mà chỉ mỗi cá nhân đó biết và quyết giữ bí mật. Từ cách tiếp cận vấn đề như vậy, những người ủng hộ quan điểm này cho rằng Sở dĩ, bà N. yêu cầu được cấp trích hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất và hồ sơ cấp GCNQSDĐ đối với bà Nguyễn Thị L., là do giữa đôi bên có tranh chấp về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất trước đó và hiện tại phía bà L. đã được UNND huyện C cấp GCNQSD diện tích đất được sang nhượng. Nhưng theo bà N., hồ sơ xin xác lập chủ quyền diện tích đất được sang nhượng đã có sự giả mạo chữ ký của cụ V. người sang nhượng, hơn nữa, diện tích đất sang nhượng thực tế là 120 m2, nhưng thực tế khi bà L. được cấp GCNQSDĐ lên đến 187 m2, trong khi theo quy định của pháp luật, là người sử dụng đất giáp ranh với đất của bà L., cụ V. hay bà N. phải ký tên xác nhận “tứ cận” – đất không có tranh chấp là mới đúng. Hồ sơ và quy trình, thủ tục cấp GCNQSDĐ theo quy định của của pháp luật là công khai. Cụ thể, Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; Thông tư liên tịch số 14/2008/TTLT/BTC-BTNMT ngày 31/01/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ tái định cư và trình tự thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất; Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT ngày 21/10/2009 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; Thông tư số 20/2010/TT-BTNMT ngày 22/10/2010 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định bổ sung về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;Thông tư số 16/2010/TT-BTNMT ngày 20/5/2010 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến thủ tục hành chính về lĩnh vực đất đai;… mà theo đó, với thủ tục cấp GCNQSĐ cho cá nhân trong mọi trường hợp đều được công chức địa chính và UBND cấp xã công bố công khai kết quả kiểm tra về nguồn gốc đất, thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp quyền sử dụng đất, sự phù hợp với quy hoạch,…tại trụ sở UBND cấp xã. Một khi tất cả các thông tin có liên quan về hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ được công bố công khai thì tại trụ sở UBND cấp xã thì rõ ràng không còn là bí mật đời tư của cá nhân đó. Nếu hiểu thu nhập và tài sản hợp pháp của cá nhân có được là “bí mật đời tư”, theo tác giả là hoàn toàn sai lầm, bởi đã là thu nhập hợp pháp thì cớ gì phải giấu giếm, phải che đậy không muốn người khác biết. Mỗi người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp GCNQSD bao nhiêu thửa đất, loại đất; diện tích sử dụng nhà ở bao nhiêu m2, loại nhà ở,… hoàn toàn không thuộc về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật của gia đình người đó. Hơn nữa, Điều 26a Luật Phòng chống tham nhũng năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2012 có quy định về công khai bản kê khai tài sản, mà theo đó, việc công khai bản kê khai tài sản của người có nghĩa vụ kê khai được công khai trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc, như vậy, với đối tượng bắt buộc phải có nghĩa vụ kê khai tài sản theo luật quy định, thì Nhà nước đã xâm phạm “quyền bí mật đời tư” của tất cả họ sao? Cho dù, bà L. không là đối tượng thuộc diện người có nghĩa vụ kê khai tài sản theo Điều 7 Nghị định 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 của Chính phủ, về minh bạch tài sản thu nhập, nhưng tài sản là quyền sử dụng 187 m2 đất bà L. đang là đối tượng của vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất, mà TAND huyện C đang thụ lý và cũng theo bị đơn hồ sơ thể hiện việc sang nhượng diện tích đất mà bà L. cung cấp cho cơ quan chức năng là giả mạo, thì lẽ ra cơ quan có chức năng phải tạo điều kiện hơn nữa để bà N. bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là mới đúng. Do đó, việc Văn phòng Đăng ký đất đai từ chối yêu cầu của bà N. bằng việc vận dụng Điều 38 BLDS là thiếu cơ sở pháp lý và không thuyết phục, nếu không muốn nói đó là sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm, là sự quan liêu của người có thẩm quyền. Tác giả đồng ý với quan điểm này. “Quyền bí mật đời tư” là quyền nhân thân bất khả xâm phạm của cá nhân. Về cơ bản có thể hiểu rằng quyền bí mật đời tư của cá nhân là quyền được bảo vệ về bí mật đời tư, nói cách khác không ai được quyền xâm phạm đến bí mật đời tư của cá nhân khi chưa được phép. Như vậy, có thể thấy rằng “quyền bí mật đời tư” được xây dựng trên khái niệm “bí mật đời tư”. Muốn xác định được phạm vi của “quyền bí mật đời tư” đòi hỏi chúng ta phải xác định khái niệm về “bí mật đời tư” là gì. Quy định về “quyền bí mật đời tư” đã được đề cập tới ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Theo đó, Hiến pháp 1946 có quy định “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật”. Điều này đã cho thấy rằng, từ khi mới thành lập, Nhà nước ta đã quan tâm và bảo vệ cho quyền riêng tư của công dân. Trải qua các thời kỳ phát triển khác nhau, các bản Hiến pháp của nước ta vẫn giữ quy định về việc bảo đảm quyền riêng tư của cá nhân với phạm vi bảo vệ ngày càng mở rộng hơn. Tuy nhiên, có thể thấy rằng các bản Hiến pháp này chỉ quy định việc bảo vệ bí mật đời tư của công dân đối với thư tín, điện thoại, điện tín mà thôi, tức là phạm vi quyền bí mật đời tư còn tương đối hẹp. Đến Hiến pháp năm 2013, quyền bí mật đời tư của cá nhân đã được tiếp cận theo cách khác, mà theo đó, như Điều 21 Hiến pháp năm 2013 mà tác giả đã trích dẫn ở phần trên. Hiến pháp 2013 đã mở rộng hơn rất nhiều đối với quyền bí mật đời tư, theo đó không chỉ bao gồm thư tín, điện thoại, điện tín mà tất cả các vấn đề về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình đều được pháp luật bảo vệ. Tiếp thu quan điểm tiến bộ này, Bộ luật Dân sự năm 2015 sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, mà theo đó, Điều 38 có quy định về quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, như sau “1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác. 3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định. 4. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” Tham khảo, quy định của pháp luật một số quốc gia trên thế giới, có thể thấy rằng “quyền bí mật đời tư” được hầu hết các nước thừa nhận với tên gọi và phạm vi khác nhau. Chẳng hạn BLDS Pháp ghi nhận mọi người đều có quyền được tôn trọng đời tư của mình và quyền riêng tư này được pháp luật bảo vệ bằng nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, giống như BLDS Việt Nam, BLDS Pháp không có quy định hướng dẫn cụ thể về khái niệm cũng như phạm vi những quyền riêng tư này như thế nào. Ngày 13/4/1988, Tòa án tối cao Pháp đã có phán quyết giải thích về phạm vi của quyền riêng tư, theo đó thì đời sống riêng tư của một người bao gồm Đời sống tình cảm, bạn bè, gia đình, sinh hoạt hằng ngày, quan điểm chính trị, công việc làm ăn hay tư tưởng tôn giáo và tình trạng sức khỏe. Hiểu một cách chung nhất quyền riêng tư cho phép mọi người không phân biệt giai cấp, độ tuổi hay tài chính chống lại hành vi xâm phạm mà không được sự cho phép của họ. Như vậy, có thể thấy rằng theo BLDS Pháp thì quyền riêng tư của mọi cá nhân là như nhau. Đồng thời phạm vi bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân là rất rộng, bao gồm các thông tin được đưa ra cả tại nơi công cộng lẫn nơi riêng tư của cá nhân. Tuy nhiên, nếu như cá nhân chủ động công bố những thông tin đó thì sẽ không được coi là bí mật đời tư nữa. Hiến pháp Nhật tại Điều 13 ghi nhận rằng công dân có quyền sống, tự do và theo đuổi hạnh phúc và được tôn trọng với tư cách là một công dân. Đây là quy định làm nền tảng cho những quy định của pháp luật chuyên ngành về quyền bí mật đời tư như Công dân không được phép xây nhà có thể nhìn vào nhà của người khác, nghiêm cấm nhìn ngó nơi cư ngụ của người khác hay đọc thư cá nhân của người khác. Năm 2003, Nhật Bản ban hành Luật Bảo vệ những thông tin cá nhân, trong đó quy định những thông tin về cá nhân sẽ được bảo vệ nếu thỏa mãn a Liên quan đến đời sống của cá nhân; b Có thể dùng để xác định, phân biệt một công dân. Tòa án Nhật Bản đã giải thích quyền về bí mật đời tư của cá nhân, bao gồm i Quyền không bị công bố thông tin cá nhân nếu không có lý do chính đáng; ii Quyền quyết định đối với thông tin cá nhân. Cũng theo Tòa án Nhật Bản, để xác định có sự vi phạm về quyền bí mật đời tư hay không phải đảm bảo các yêu cầu sau i. Có liên quan đến đời sống riêng tư của cá nhân. ii. Cá nhân đó có mong muốn giữ bí mật. iii. Không phải là thông tin, hiểu biết công cộng. iv. Gây ảnh hưởng nặng nề đối với cá nhân nếu bị xâm phạm. Hội đồng Calcutt ở Vương quốc Anh cho rằng “không nơi nào chúng ta có thể tìm thấy một định nghĩa hoàn toàn thỏa đáng về quyền riêng tư”. Nhưng Hội đồng này đã hài lòng với định nghĩa sau Quyền riêng tư là các quyền của cá nhân được bảo vệ để chống lại sự xâm nhập vào đời sống cá nhân hay công việc của mình hoặc những người trong gia đình bằng các phương tiện vật lý trực tiếp hoặc bằng cách công bố thông tin. Như vậy, nhìn chung có thể thấy rằng pháp luật các quốc gia trên thế giới cũng nhìn nhận “quyền bí mật đời tư” dưới góc độ bảo vệ cho những thông tin liên quan đến đời sống riêng tư của cá nhân mà người đó có mong muốn được giữ bí mật. Trong trường hợp người đó chủ động công bố thông tin thì sẽ không được coi là bí mật đời tư và sẽ không được pháp luật bảo vệ nếu như những thông tin này được người khác sử dụng[1]. Kiến nghị Từ những phân tích trên, tác giả đề xuất hai kiến nghị sau Thứ nhất, về nguyên tắc luật, “Quyền bí mật đời tư” là không đồng nhất với khái niệm “Quyền riêng tư”. Quyền riêng tư cũng liên quan đến cá nhân, tuy nhiên những vấn đề thuộc về riêng tư xét ở khía cạnh nào đó lại không được coi là bí mật, mặc dù pháp luật vẫn bảo hộ những quyền này. Bất cứ cá nhân nào cũng có sự tự do trong suy nghĩ, hành động – đây là sự “riêng tư” của chính họ. Lẽ dĩ nhiên, nếu là sự tự do trong suy nghĩ thì vấn đề không có gì phức tạp, bởi không ai có thể bắt người khác phải suy nghĩ theo ý muốn của mình. Ngược lại, nếu là sự tự do trong hành động thì điều đó còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như luật pháp, quan hệ với những người xung quanh, sự tác động của phong tục tập quán, thói quen… Có thể thấy, pháp luật nói chung, pháp luật Việt Nam nói riêng luôn tôn trọng sự riêng tư của cá nhân quyền bất khả xâm phạm chỗ ở, quyền lựa chọn công việc cho phù hợp với khả năng và điều kiện của bản thân, quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng…. Như vậy, để có thể hiểu được “Quyền bí mật đời tư” thì phải xây dựng được khái niệm “bí mật đời tư”. Và việc xây dựng khái niệm “bí mật đời tư” phải xác định được hai khái niệm cũng như sự liên kết của hai khái niệm, đó là khái niệm “bí mật” và khái niệm “đời tư”. Theo quan điểm của tác giả, tính “bí mật” trong khái niệm “bí mật đời tư” chỉ mang tính tương đối. Điều này có nghĩa là, cùng một nội dung vụ việc có tính chất như nhau, đối với người này có thể là bí mật, nhưng đối với người khác thì đây chỉ là một thông tin bình thường, có thể công bố rộng rãi và cá nhân có mong muốn giữ bí mật đối với những thông tin đó không. Do vậy, theo quan điểm đề xuất của tác giả, “Bí mật đời tư” thực chất là những thông tin liên quan đến cuộc sống của một cá nhân nhất định mà cá nhân đó thấy rằng cần thiết và mong muốn giữ bí mật. “Quyền bí mật đời tư” và “quyền được bảo đảm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân” là giống nhau về bản chất, đều là sự bảo vệ đối với những thông tin liên quan đến cuộc sống riêng của cá nhân. Thứ hai, phạm vi những thông tin thuộc về “bí mật đời tư” của mỗi cá nhân. Vấn đề đặt ra, có phải mọi thông tin thuộc về cá nhân mà cá nhân muốn giữ bí mật sẽ trở thành “bí mật đời tư” và được pháp luật bảo vệ. Vấn đề này hiện đang có hai quan điểm sau – Quan điểm thứ nhất cho rằng, những thông tin muốn được coi là “bí mật đời tư” phải là những thông tin hợp pháp. Bởi lẽ, đối với những thông tin trái pháp luật hay đạo đức xã hội thì pháp luật sẽ không bảo vệ, và như vậy sẽ không được coi là “bí mật đời tư” được. – Quan điểm thứ hai, không nên quá cứng nhắc mà nên có sự linh hoạt để áp dụng vào từng trường hợp cụ thể. Ví dụ, trường hợp con đánh bố mẹ, hay chồng hành hạ vợ, thì dù có là vấn đề riêng tư, cá nhân, thì xã hội, các tổ chức đoàn thể địa phương và những người xung quanh cũng không thể không can thiệp và lên tiếng, vì đó là hành vi bất hợp pháp. Tuy nhiên, với một trẻ em dưới 14 tuổi mà bị dâm ô hoặc bị người thành niên giao cấu, việc dư luận xã hội lên án đối tượng hiếp dâm, báo chí phanh phui sự việc là đương nhiên, nhưng không vì thế mà làm tổn thương thêm danh dự, nhân phẩm của đứa bé đó, kể cả trường hợp nạn nhân có sự “đồng tình” đi chăng nửa, thì phải xác định được rằng, do sự hạn chế về mặt nhận thức của một đứa trẻ chưa đến tuổi trưởng thành. Vì vậy, theo quy định tại Điều 116 và Điều 115 BLHS hiện hành, người thực hiện hành vi phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, khi xét xử, căn cứ quy định tại ý 2 Điều 18 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tòa án xét xử kín, nhưng tuyên án công khai. Thực hiện đúng quy định này là cần thiết, nhằm bảo vệ lợi ích cho nạn nhân, vì nó có thể còn liên quan đến lợi ích của họ sau này nữa. Người viết đồng ý với quan điểm này, có nghĩa cần linh động trong việc xác định thông tin nào được cho là “bí mật đời tư”. Có nghĩa là về nguyên tắc thì không phải mọi thông tin về đời sống riêng tư mà cá nhân không muốn công khai sẽ trở thành “bí mật đời tư” mà muốn được pháp luật bảo vệ thì những thông tin này phải hợp pháp. Tuy nhiên, để xác định “tính hợp pháp” này phải căn cứ vào từng trường hợp, hoàn cảnh sự việc cụ thể, mà ưu tiên hàng đầu đặt ra là bảo vệ tốt nhất cho quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân người trong cuộc. THS. LÊ VĂN SUA NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP
Bí mật cá nhân bị tiết lộ, chúng ta có thể gặp rắc rối trong cuộc sống như bị kẻ lừa đảo sử dụng thông tin đó để thực hiện hành vi phi pháp… vì thế việc có một đạo luật riêng bảo vệ đời tư là cần thiết. Bí mật đời tư Privacy là một trong những giá trị lớn nhất và là một trong những quyền cơ bản quan trọng nhất của con người được Hiến pháp ghi nhận. Việc bảo vệ nó tưởng chừng như một điều đơn giản, nhưng trên thực tế, sự vi phạm có thể nói là đang trở nên tràn lan, trở thành mối lo cho xã hội. Các quốc gia đang sử dụng các hình thức khác nhau để bảo vệ, từ quan tòa đến các ủy ban chuyên biệt như Ủy ban bí mật đời tư Privacy Commissioner. Việc ngăn chặn sự xâm phạm bí mật đời tư thực sự khó khăn trong kỉ nguyên internet này, khi mà thông tin được lan truyền rất nhanh chỉ sau một cái nhấp chuột máy tính, chúng ta có thể thấy rất nhiều thông tin đời tư đáng ra phải được bảo vệ của nhiều cá nhân bị phơi bày. Những người có thông tin cá nhân bị tiết lộ hoặc người thân của họ đôi khi gặp rắc rối trong cuộc sống như kẻ lừa đảo sử dụng thông tin của họ nhằm thực hiện hành vi phi pháp… Một ví dụ có thể kể ra, đó là việc một ca sĩ bị tố cáo hiếp dâm. Liệu rằng, chỉ cần căn cứ vào bản tố cáo của một người nào đó mà cơ quan nhà nước sẽ có quyền cung cấp với báo chí thông tin về tên tuổi, địa chỉ… của ca sĩ đó hay không? Ngoài ra, chúng ta cũng đặt ra câu hỏi rằng thông tin của người chết có cần được bảo vệ? Và nếu được bảo vệ thì trong trường hợp nào? Hay thông tin của các tổ chức như doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có được xem là bí mật đời tư hay không? Bí mật đời tư tuy được bảo vệ trong Bộ luật hình sự và Bộ luật dân sự nhưng chỉ được viện dẫn khi có “thiệt hại” của nạn nhân bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng… chứ chưa quy định một cách cụ thể, đầy đủ như ai là người có quyền thu thập thông tin cá nhân người khác, trình tự thu thập, lưu giữ, sử dụng, tiết lộ thông tin cá nhân như thế nào? Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì cũng thật khó xác định mức độ thiệt hại thực tế như thế nào trong trường hợp bí mật đời tư bị xâm phạm. Đặc biệt, đó là sự thiếu vắng hành lang pháp lý để bảo vệ bí mật đời tư không bị tiết lộ cũng như những chế tài dân sự, hành chính và hình sự áp dụng đối với ngay cả những trường hợp không có thiệt hại xảy ra nhằm bảo vệ quyền hợp pháp của công dân cũng như mang tính giáo dục chung. Do đó, đôi khi chúng ta đặc biệt là những người nổi tiếng trước công chúng phải tự mình đi tìm “phương án” để bảo vệ bí mật đời tư cho mình chứ không phải là quyền đương nhiên đã được bảo vệ chặt chẽ bởi luật. Với sự cần thiết có một đạo luật về bí mật đời tư privacy act dựa trên những nguyên tắc cốt lõi nhất định sau đây sẽ tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng góp phần tích cực bảo vệ bí mật riêng tư của các cá nhân trong cộng đồng 1. Mục đích của việc thu thập thông tin cá nhân Thông tin cá nhân chỉ được thu thập cho một mục đích hợp pháp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của người thu thập thông tin. Ví dụ như các quan tòa thu thập thông tin của bị cáo cho mục đích xét xử. Và việc thu thập thông tin như vậy là cần thiết cho mục đich đó. Chẳng hạn, điều tra viên không được thu thập thông tin của bị can với mục đích gì khác, mà chỉ khi cần thiết cho hoạt động điều tra. 2. Nguồn của thông tin cá nhân Thông tin được thu thập từ chính cá nhân được yêu cầu cung cấp thông tin hoặc người thu thập thông tin có thể thu thập ở các nguồn khác khi có căn cứ cho rằng thông tin đó đã có sẵn trên thông tin đại chúng, hoặc cá nhân bị thu thập thông tin đã ủy quyền cung cấp thông tin cho người khác, hay những trường hợp như để phục vụ cho quá trình điều tra, phát hiện, buộc tội người phạm tội, bảo vệ lợi ích công cộng… 3. Thông báo cho người bị thu thập biết về việc thu thập thông tin Việc thu thập thông tin phải đảm bảo cho cá nhân bị thu thập thông tin biết về việc thông tin của họ đang bị thu thập. Ngoài ra, người bị thu thập thông tin cũng được biết về mục đích của việc thu thập thông tin, tên, địa chỉ của người thu thập và người sẽ giữ thông tin đó. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp người thu thập thông tin không cần phải thông báo cho người bị thu thập thông tin để bảo vệ lợi ích công cộng, hoặc có lý do chính đáng cho rằng việc thông báo sẽ gây ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chức năng của mình theo quy định của pháp luật. 4. Phương thức thu thập thông tin Thông tin cá nhân không được thu thập theo những cách không hợp pháp, chẳng hạn như đặt máy quay phim bí mật trong nhà người khác, với những cách thức thu thập thông tin như vậy, thì thông tin đó cũng sẽ không được sử dụng ví dụ chứng cứ tại phiên tòa… . 5. Lưu giữ và bảo vệ thông tin cá nhân Người nắm giữ thông tin phải đảm bảo rằng thông tin đó được bảo vệ bằng những biện pháp thích hợp trong phạm vi quyền hạn của mình, để tránh thông bị được lưu giữ bị thất thoát, sử dụng sai mục đích, sửa đổi hay tiết lộ, loại trừ những trường hợp được luật quy định ví dụ như theo yêu cầu cung cấp thông tin của tòa án… . 6. Tiếp cận, sửa chữa thông tin của người bị thu thập thông tin Người bị thu thập thông tin được quyền yêu cầu người lưu giữ thông tin xác nhận về việc lưu giữ thông tin và họ có quyền tiếp cận cũng như yêu cầu sửa chữa những thông tin sai lệch về họ. Theo yêu cầu của người bị thu thập thông tin, người lưu giữ thông tin theo thẩm quyền của mình phải thực hiện các bước để sửa chữa những thông tin sai lệch đó. 7. Kiểm tra tính chính xác của thông tin trước khi sử dụng Người giữ thông tin không sử dụng thông tin được thu thập nếu không thực hiện các cách thức hợp lý để xác định thông tin đó có chính xác hay không, đã được cập nhật đầy đủ và phù hợp với mục đích của việc sử dụng nó chưa? 8. Không được giữ thông tin cá nhân người khác khi không cần thiết Người giữ thông tin sẽ không được lưu giữ thông tin cá nhân người khác lâu hơn thời gian như đã yêu cầu cho các mục đích mà thông tin được sử dụng. 9. Những giới hạn của việc sử dụng, tiết lộ thông tin cá nhân Người giữ thông tin chỉ được sử dụng, tiết lộ thông tin theo mục đích mà thông tin được thu thập. Chỉ được sử dụng, tiết lộ cho mục đích khác trong những trường hợp sau - Thông tin có sẵn trên thông tin đại chúng. - Khi được phép của người bị thu thập thông tin. - Cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng, tiết lộ thông tin đó để phục vụ cho quá trình điều tra, truy tố người phạm tội. - Nhằm bảo vệ lợi ích công cộng. - Việc sử dụng, tiết lộ thông tin đó cho mục đích khác là cần thiết để ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra như tới sức khỏe cộng đồng, an ninh quốc gia, tính mạng hay sức khỏe của người bị thu thập thông tin hoặc người khác. - Thông tin được sử dụng, tiết lộ dưới hình thức mà không thể nhận ra đó là thông tin của người bị thu thập thông tin. Hy vọng rằng, luật Bí mật đời tư sẽ sớm ra đời, nhằm tạo ra cở sở pháp lý cần thiết để bảo vệ bí mật đời tư của cá nhân, một trong những giá trị thiêng liêng của mỗi con người, tránh tình trạng vi phạm bí mật đời tư như hiện nay. Tất nhiên, quyền bí mật đời tư không phải là quyền “tuyệt đối” mà đôi khi nó cũng bị chồng lấn bởi “quyền tiếp cận thông tin” của người khác hay “sức khỏe cộng đồng” lợi ích công cộng nhưng nhà nước cũng phải đảm bảo quyền bí mật đời tư được bảo vệ bởi vì đó là lợi ích hợp pháp của cá nhân. >> Xem thêm Quyền im lặng được áp dụng như thế nào ở Mỹ ThS Trần Đức Tuấn Chia sẻ bài viết của bạn về đời sống, xã hội tại đây
Ngày đăng 26/03/2013, 2030 Bí mật đời tư , vấn đề lí luận và thực tiễn Website Email lienhe Tel Đề tài Bí mật đời t vấn đề lí luận và thực tiễn Kết Cấu Bài Viết 1. Phần mở đầu 2. Nội Dung a. Phần lý luận I. Khái niệm Bí mật đời t II. Quyền đối với bí mật đời t III. Một số quy định về Bí mật đời t của các quốc gia trên thế giới. B. Thực tế I. Hiểu thế nào về bí mật đời t liên quan đến tác nghiệp báo chí. II. Các vụ việc liên quan đến Bí mật đời t. 3. Kết luận 1 Website Email lienhe Tel Phần mở đầu Trong đời sống xã hội, mỗi ngời đều có một số quyền mà trong đó các quyền nhân thân là bộ phận quyền ngày càng trở nên quan trọng. Đó là các quyền có liên quan mật thiết đến danh dự, uy tín, nhân phẩm Pháp luật đang ngày càng chú trọng đến việc bảo vệ quyền nhân thân mà đặc biệt là trong lĩnh vực hình ảnh cá nhân, bí mật đời t cá nhân Nói chung, quyền nhân thân là thứ quyền để bảo vệ cái danh của mỗi con ngời, bao gồm nhiều khái niệm danh dự, danh tiếng, danh hiệu, thanh danh, bút danh Khi nói đến quyền nhân thân ng ời ta thờng quan tâm đến những quyền cụ thể nh quyền đối với họ, tên ; quyền đối với hình ảnh của mình ; quyền đợc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín ; quyền đợc bảo vệ bí mật đời t Một xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, quyền tự do dân chủ càng đợc mở rộng bao nhiêu, thì con ngời càng đợc tôn trọng bấy nhiêu, và do đó các quyền nhân thân càng đợc pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn cùng với các biện pháp bảo vệ ngày càng có hiệu quả. Ví dụ ở nớc ta, trớc đây các quyền nhân thân đợc pháp luật quy định cha nhiều, trong cuộc sống thờng ngày, tên họ, hình ảnh, đời t của cá nhân công dân dễ bị bêu riếu trên mặt báo với nhiều động cơ khác nhau ; ngời bị xúc phạm dù chịu rất nhiều khó khăn, khổ sở, nhục nhã mà không biết làm cách nào để tự vệ, buộc ngời vi phạm chấm dứt hành vi xúc phạm đến bản thân mình, gia đình mình. Thờng thì ngời xâm phạm chỉ bị đền bù tợng trng bằng cách xin lỗi chứ không có biện pháp nào đền bù thoả đáng về vật chất và tinh thần cho ngời đó. Gần 10 năm nay, cùng với những thành quả của công cuộc đổi mới, sự ra đời của bộ luật dân sự có hiệu lực từ ngày 01. 07. 1996, nhiều quyền nhân thân của công dân đã đợc Nhà nớc long trọng công nhận và thực hiện nhiều biện pháp bảo vệ. Cụ thể nh vấn đề họ tên, hình ảnh, bí mật đời t, uy tín, danh dự, nhân phẩm 2 Website Email lienhe Tel của cá nhân đã đợc pháp luật quy định ở nhiều văn bản, nhiều ngành luật khác nhau. Nhiều vụ án đã đợc Toà án thụ lí xét xử, buộc ngời vi phạm dù là cá nhân hay tổ choc, dù là t nhân hay Nhà nớc đều phải có nghĩa vụ xin lỗi và bồi thờng bằng tiền cho ngời bị xâm phạm. Từ các cơ quan Nhà nớc tiến hành tố tụng gây oan sai, từ báo chí thông tin sai sự thật, xuyên toạc, vu khống ; từ việc cá nhân tổ choc đạo văn, ăn cắp nhạc, xâm phạm bản quyền ; từ việc tự ý sử dụng họ tên hay hình ảnh của công dân trên các mẫu quảng cáo, in lịch mà không hỏi ý kiến hoặc không đợc sự đồng ý của ngời đó hoặc thân nhân của họ nếu họ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự. Hành vi xâm phạm quyền nhân thân của công dân không nhất thiết phải gây ra thiệt hại cho cá nhân đó mà kể cả trờng hợp ngời bị xâm phạm không bị thiệt hại gì, thậm chí là có lợi cho họ, nhng về nguyên tắc hễ không có sự đồng ý của ngời đó thì bị coi là vi phạm. Hiện nay pháp luật đã quy định các biện pháp để bảo vệ và khôi phục các quyền nhân thân của công dân. Theo đó, ngời xâm phạm nhân thân của ngời khác thì dù cố ý hay vô ý thì đều phải có nghĩa vụ chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công khai; nếu xâ phạm danh dự nhân phẩm, uy tín thì phải bồi thờng bằng một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho ngời bi xâm phạm. Nếu chỉ xâm phạm đanh dự, nhân phẩm, uy tín thì bồi thờng thiệt hại tinh thần tối đa bằng 10 tháng lơng tối thiểu do Chính phủ quy định trong tong thời kỳ, hiện nay là 290. 000 đồng /tháng. Nếu việc xâm phạm gây ảnh hởng đến sức khoẻ, thiệt hại tính mạng, ngời bị xúc phạm lo lắng, buồn phiền sinh ra bệnh tật, tự tử thì riêng mức bồi thờng thiệt hại tinh thần có thể đến tối đa 60 tháng lơng tối thiểu. Đó là trách nhiệm pháp lí giữa ngời với ngời giữa ngời vi phạm với ngời bị xâm phạm ; còn đối với xã hội nói chung thì Nhà nớc đại diện cho xã hội sẽ xử phạt họ. Việc xâm phạm nhân thân của ngời khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nếu ở mức độ thấp, tính nguy hiểm cha đáng kể thì có thể bị Nhà nớc xử lý hành chính ; nếu nguy hiểm ở mức độ đáng kể thì ngời thực hiện hành vi ấy có thể bị xử lý hình sự. 3 Website Email lienhe Tel Nói tóm lại, quyền nhân thân của con ngời đã đợc pháp luật quan tâm ngày càng nhiều. Tuy nhiên, ở một vài lĩnh vực thì vẫn cha đợc quy định một cách thích đáng, còn nhiều bất cập. Do tầm hiểu biết và phạm vi tài liệu còn hạn chế nên bài viết này chỉ tìm hiểu tới một khía cạnh nhỏ của quyền nhân thân - đề tài Bí mật đời t - vấn đề lí luận và thực tiễn. 4 Website Email lienhe Tel Nội dung A. Phần lý luận I. Khái niệm bí mật đời t Hiện nay Bộ luật dân sự nớc ta đã có những quy định về quyền bảo vệ đối với bí mật đời t. Theo đó, việc thu thập, công bố thông tin, t liệu về đời t của cá nhân phải đợc ngời đó đồng ý, trong trờng hợp ngời đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, cha đủ 15 tuổi thì phải đợc cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc ngời đại diện của ngời đó đồng ý, trừ trờng hợp thu thập, công bố thông tin, t liệu theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Quy định là vậy nhng xem ra để xác định thế nào là đời t và bí mật đời t- thì còn nhiều vấn đề cha đợc làm rõ. Pháp luật Việt Nam hiện nay cha có quy định rõ ràng về phạm vi khái niệm Bí mật đời t, đồng thời cũng cha có văn bản pháp luật nào giải thích khái niệm bí mật đời t rõ ràng. Khái niệm Bí mật đời t là cụm từ Hán Việt, có nguồn gốc chữ Hán và đợc Việt hoá. Do đó, có thể hiểu bí mật là những chuyện kín đáo, chuyện muốn che giấu, không cho ai biết. T có nghĩa là riêng, việc riêng, của riêng. Nh vậy bí mật đời tlà chuyện thầm kín của một cá nhân nào đó. Theo Tiến sĩ Lê Thu Hà Học Viện T Pháp, hiện nay Việt Nam cha có định nghĩa về bí mật đời t Theo chúng tôi, có thể hiểu bí mật là những gì cha đợc tiết lộ, chỉ một hoặc một số ngời nào đó biết, còn đời t là những gì liên quan đến sinh hoạt riêng t của cá nhân nào đó mà ngời đó không muốn nhiều ngời biết tặng bồ tiền, ngoại tình, tình trạng hôn nhân, sự dịch chuyển tài sản, di chúc thừa kế hoặc đơn giản là ai hay lui tới nhà . Nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật ban hành từ trớc tới nay, chúng tôi cũng nhận thấy, cha có bất kỳ một quy định nào giải thích thế nào là bí mật đời t và danh mục bí mật đời t. 5 Website Email lienhe Tel Theo chúng tôi, bí mật đời t là những thông tin mà chỉ cá nhân ngời đó hoặc một số ngời thân thích biết đợc về cuộc sống riêng của mình mà họ không muốn tiết lộ cho nhiều ngời. Tiến sĩ Lê Thu Hà cho rằng tất cả những điều về cá nhân ngời đó nh nhân thân, tài sản, kể cả tài sản riêng t mà ngời đó có đợc do hoạt động hợp pháp, pháp luật không bắt buộc họ phải công khai thì đó đợc xác định là bí mật đời t của họ. Theo quan điểm của một số ngời làm công tác pháp luật, bí mật đời t có thể hiểu là những gì gắn với nhân thân con ngời, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ gắn liền với một cá nhân mà ngời này không muốn cho ngời khác biết. Những bí mật đời t này chỉ có bản thân ngời đó biết hoặc những ngời thân thích, những ngời có mối liên hệ với ngời đó biết và họ cha từng công bố ra ngoài với bất kì ai. Bí mật đời t có thể đợc hiểu là chuyện trong nhà của cá nhân nào đó. VD con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khoẻ, bệnh tật, các loại th tín, điện thoại, điện tín. v. v. . II. Quyền đối với Bí mật đời t Theo điều 24 Bộ luật dân sự thì, quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho ngời khác, trừ trờng hợp pháp luật có quy định khác. Vẫn theo Bộ luật dân sự thì, quyền về nhân thân bao gồm quyền đối với họ tên, quyền xác định dân tộc, quyền khai sinh, khai tử, quyền của cá nhân đối với hình ảnh, quyền đợc bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể, quyền đợc bảo vệ danh dự, nhân phẩm Trong đó, quyền về bí mật đời t cũng là một quyền về nhân thân. Xin đơn cử một ví dụ quyền về hình ảnh rõ ràng là quyền của nhân thân, tuy nhiên chỉ những hình ảnh nóng ghi lại sinh hoạt riêng t của cá nhân bị ngời khác trng ra cho công chúng thì mới bị coi là xâm phạm bí mật đời t Cũng có trờng hợp Bộ luật dân sự quy định một cách rõ ràng, chẳng hạn nh bí mật th tín, điện tín. Chẳng hạn nh nếu vợ hoặc chồng vì ghen tuông mà nghe lén, ghi âm điện thoại, điện báo, đọc tin nhắn của ngời bạn đời mình cũng đợc coi là hành vi vi phạm. 6 Website Email lienhe Tel Tuy nhiên, nếu nh vì vợ hoặc chồng nói quá to mà ngời bên cạnh nghe đợc thì khó có thể coi là xâm phạm Theo thông t số 09/2005/TT - BCA ngày 05. 09. 2005 Hớng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 38/2005/NĐ - CP ngày 18. 03. 2005 của chính phủ quy định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng, nơi công cộng là các khu vực, địa điểm phục vụ chung cho mọi ngời nh vỉa hè, lòng đờng, quảng trờng, cơ sở kinh tế, văn hoá, nơi sinh hoạt cộng đồng; tại khu vực trụ sở cơ quan Nhà nớc, tổ choc chính trị - xã hội hoặc tại những nơi đợc trng dụng để phục vụ cho nhiều ngời trong một thời gian nhất định nơi tổ chức hội chợ, triển lãm hoặc khu thể thao sân bóng, sân quần vợt, chợ nổi Nh vậy những gì cá nhân phô diễn ra nơi công cộng thì không còn gọi là bí mật đời t nữa và những gì cá nhân khác có quyền về nơi công cộng ấy bình đẳng nh nhau. Ví dụ hình ảnh một cá nhân nào đó chop tại nhà hay studio muốn đăng báo, phát hành phải xin phép cá nhân đó. Nhng nếu ai đó đang tham gia phiên toà, chop hình chung nhiều ngời bị cáo, nguyên đơn, bị đơn, hội đồng xét xử, ngời dự khán thì những hình ảnh đấy không còn bí mật đời t nữa mà là hình ảnh về sinh hoạt cộng đồng, tác giả bức ảnh đấy có quyền sử dụng mà không cần phải xin phép những ngời có mặt trong ảnh. Tơng tự, hôn nhân và gia đình là chuyện riêng t của cá nhân với nhau, nhng đã đem những chuyện riêng t ấy trình bày trớc phiên toà công khai thì những lời ấy không còn là bí mật đời t nữa, và nó đã đợc chính những ngời trong cuộc tự nguyện công khai hoá cho nên, không có cái bí mật đời t chung chung mà bí mật đời t phải đợc cụ thể trong từng trờng hợp rõ ràng. Công dân muốn pháp luật bảo vệ quyền về bí mật đời t thì công dân đó phải có nghĩa vụ chứng minh bí mật đó thuộc về cá nhân ngời đó mag cha từng công bố, công khai ở nơi công cộng. Pháp luật Việt Nam đã quy định một số quyền đối với bí mật đời t - Hiến pháp năm 1946, Điều 11 T pháp cha quyết định thì không đợc bắt bớ, giam cầm công dân Việt Nam. Nhà ở và th tín của công dân Việt Nam, không ai đợc xâm phạm một cách trái pháp luật. 7 Website Email lienhe Tel - Hiến pháp năm 1959, điều 28 Pháp luật bảo đảm nhà ở của công dân nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà không bị xâm phạm, th tín đợc gĩ bí mật. Công dân nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền tự do c trú và đi lại. - Hiến pháp năm 1980, Điều 70, 71 Điều 70 Công dân có quyền đợc pháp luật bảo vệ về tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm. Điều 71 Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai đợc tự ý vào chỗ ở của ngời khác nếu ngời đó không đồng ý, trừ trờng hợp đợc pháp luật cho phép. Việc khám xét chỗ ở phải do đại diện cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền tiến hành, theo quy định của pháp luật. Bí mật th tín, điện thoại, điện tín đợc bảo đảm. Quyền tự do đi lại và c trú đợc tôn trọng, theo quy định của pháp luật. - Hiến pháp năm 1992, Điều 73 Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai đợc tự ý vào chỗ ngời khác nếu ngời đó không đồng ý, trừ trờng hợp đợc pháp luật cho phép. Th tín, điện thoại, điện tín của công dân đợc đảm bảo an toàn và bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ th tín, điện tín của công dân phải do ngời có thẩm quyền tiến hành hoặc do pháp luật quy định. - Bộ luật dân sự năm 1995, Điều 34 1. Quyền đối với bí mật đời t của cá nhân đợc tôn trọng và đợc pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, công bố thông tin, t liệu về đời t cá nhân phải đợc ngời đó đồng ý hoặc nhân thân ngời đó đồng ý, nếu ngời đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, trừ trờng hợp thu thập, công bố thông tin, t liệu theo quy định của cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền và phai đợc thực hiện theo quy định của pháp luậ. - Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 38 Quyền về bí mật đời t 1. Quyền đối với bí mật đời t của cá nhân đợc tôn trọng và đợc pháp luật bảo vệ. 8 Website Email lienhe Tel 2. Việc thu thập, công bố thông tin, t liệu về đời t của cá nhân phải đợc ngời đó đồng ý hoặc nhân thân ngời đó đồng ý, nếu ngời đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, trừ trờng hợp thu thập, công bố thông tin, t liệu theo quy định của cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền và phải đợc thực hiện theo quy định của pháp luật. 3. Th tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân đợc đảm bảo an toàn và bí mật. Việc kiểm soát th tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân đợc thực hiện trong trờng hợp pháp luật có quy định của cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền. III. Quy định về Quyền đối với bí mật đời t của một số quốc gia trên thế giới 1. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ Quyền lợi của các công dân đợc đảm bảo về bản thân, nhà cửa, giấy tờ và tài sản khỏi mọi sự khám xét và tịch thu vô lý, sẽ không bị xâm phạm và sẽ không bị trát khám nhà nào đợc cấp nếu không phải là có lí do chắc chắn, căn cứ vào lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận, cần nhất trát đó phỉa tả rõ nơI và chốn phải khám xét và chỉ rõ ngời hay vật phải bắt giữ. Điều 4 - Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. 2. Nhật Bản Nhà ở, th từ và các đồ vật đều đợc đảm bảo chống lại sự khám xét, tìm tòi và tịch thu, trừ có trát của toà án trình bày lý do, ghi chỗ khám xét, đồ vật có thể bị tịch thu theo điều kiện trong khoản 33. Mọi sự khám xét và tịch thu phải do lệnh của thẩm phán lí trát riêng biệt. Điều 35 - Hiến pháp Nhật Bản. 3. Trung Quốc Công dân có quyền đợc tự do về ngôn luận, th tín, báo chí, hội họp, tuần hành, biểu tình, tự do bãi công, tự do tín ngỡng và tự do không tín ngỡng và tuyên truyền chủ nghĩa vô thần. 9 Website Email lienhe Tel Tự do cá nhân của công dân và nhà ở của họ là bất khả xâm phạm. Không một công dân nào có thể bị bắt nếu không có quyết định của toà án, chứng nhận hoặc phê chuẩn của một cơ quan an ninh. Điều 28 - Hiến pháp CHND Trung Hoa. 4. Thuỵ Điển Mọi công dân đợc bảo vệ chống lại mọi biện pháp do một nhà chức trách thực hiện đối với họ thuộc loại khám xét ngời hoặc một sự xâm phạm cỡng bức đối với thân thể thuộc loại khám xét, mọi việc xen vào những quan hệ tôn giáo hoặc th tín, điện tín hoặc nghe điện bí mật. Điều 3 - Hiến pháp Thuỵ Điển. 5. Pháp Mỗi ngời có quyền đợc tôn trọng đời t của mình. Thẩm phán có thể ngoài việc quyết định bồi thờng thiệt hại, quyết định mọi biện pháp, nh quyền trừ, kê biện và các biện pháp khác nằm ngăn chặn hoặc chấm dứt việc vi phạm đến sự sâu kín của đời t, các biện pháp này trong trờng hợp cấp bách có thể đợc quy định theo thủ tục cấp thẩm. Điều 9 - Luật Dân sự Pháp. Nhìn chung, quy định của các quốc gia khác về cơ bản cũng giống nh Việt Nam đều khẳng định quyền đối với bí mật đời t cá nhân đợc tôn trọng và đợc pháp luật bảo vệ. Bí mật đời t của một ngời có mối quan hệ hữu cơ với danh dự, uy tín, nhân phẩm của ngời đó. Ngời có hành vi làm lộ bí mật đời t của ngời khác bị coi là vi phạm quyền nhân thân của cá nhân. Ngời có hành vi làm lộ bí mật đời t của ngời khác phải chịu trách nhiệm dân sự, khi có đủ 4 điều kiện sau - Có hành vi làm lộ bí mật đời t trái với ý chí của ngời có bí mật đời t. - Có hậu quả là sự giảm sút về uy tín, danh dự, nhân phẩm có thể xác định đợccủa ngời có đời t và làm cho những ngời khác hình dung sai về nhân phẩm, danh dự của ngời đó. - Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cố ý làm lộ bí mật đời t của một ngời với những tổn hại về uy tín, nhân phẩm của ngời có đời t. 10 [...]... nhiều vấn đề lớn, sâu sắc cho cả gia đình, xã hội Trong đề tài này cá nhân em muốn đợc đề cập đến vấn đề làm lộ bí mật đời t của ngời khác, xâm phạm hình ảnh cá nhân Có thể nói rằng quyền đối với bí mật đời t là một quyền cơ bản gắn với con ngời Bí mật đời t của cá nhân là những mối quan hệ song phơng, đa phơng trong tông thể các mối quan hệ xã hội mà ngời đó đã và đang tham gia, từ đó bộc lộ khả năng,... nào là bí mật đời t, cái nào không phải là bí mật đời t vì có quá nhiều chi tiếtTheo ý kiến của thẩm phán Tôn Văn Thành TAND Quận 12 Tp Hồ Chí Minh Bí mật đời t là rất khó bao quát hết và mọi ngời có thể biết đợc cái gì là bí mật đời t mà không xâm phạm và thẩm phán có thể áp dụng xử lý đợc Hiện nay, dù chúng ta đã có một số văn bản quy định và điều chỉnh những hành vi xâm phạm đến bí mật đời t, tuy... - Ngời làm lộ bí mật đời t của ngời khác có lỗi cố ý với hành vi làm lộ 11 Website Email lienhe Tel B Thực tế xung quanh vấn đề việc vi phạm Bí mật đời t ở nớc ta I Hiểu thế nào về quyền đối với Bí mật đời t liên quan đến tác nghiệp báo chí Theo các chuyên gia pháp l , hiện nay cha có một danh mục nào liệt kê các bí mật đời t cần đợc bảo vệ Đây... báo Thuỷ Cúc ra to , đòi bồi thờng và xin lỗi ông do xâm phạm bí mật đời t Về phía nguyên đơn và bị đơn Ông Đức cho rằng cuốn sách kể lại và bình luận về diễn biến phiên toà xét xử vụ ly hôn của vợ chồng ông lầcn thiệp phi pháp vào chuyện hôn nhân gia đình 13 Website Email lienhe Tel ông, xúc phạm bí mật đời t Từ đ , ông yêu cầu NXB Trẻ và báo Tuổi Trẻ không... ngời khác Theo khoản 2, 3 Điều 38 Bộ luật dân sự năm 2005 2 Việc thu thập, công bố thông tin, t liệu về đời t của cá nhân phảI đợc ngời đó đồng , nếu ngời đó đã chết, mất năng lực hành vi dân s , cha đủ 15 tuổi thì phải đợc cha, m , v , chồng, con đã thành niên hoặc ngời đại diện của ngời đó đồng , trừ trờng hợp thu thập, công bố thông tin, t liệu theo quy định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền... dân sự Nếu vi phạm quyền đối với bí mật đời t của cá nhân đôi khi dân ngời bị hại vào một hoàn cảnh không thể vợt qua, sống tự ti, thiếu lòng tin, tình yêu cuộc sống, nghi ngờ những ngời tốt sông quanh mình ; ảnh hởng đến danh d , nhân phẩm, uy tín của con ngời Mặc dù đã đợc cải chính thông tin, mặc dù đợc bồi thờng nhng hậu quả mà ngời bị hại phải chịu là rất lớn Bí mật đời t đâu phải là cái có thể trao... Sau khi bản án sơ thẩm đã tuyên, cả 3 đồng bị đơn đồng loạt kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm với lí do Bản án sơ thẩm không có căn cứ pháp luật Hội đồng xét xử đã lạm quyền, tự sáng tác luật, pháp luật cha có định nghĩa thế nào là bí mật đời t, mặt khác những thông tin công khai tại toà không thể đợc xem là bí mật Hơn nữa, tác phẩm Tổ ấm không đề cập đến tên tuổi cụ thể của... quyền đối với bí mật đời t còn cha đợc quy định một cách cụ thể và rõ ràng nên vẫn đang còn rất nhiều điều băn khoăn xung quanh vấn đề này II Các vụ việc có liên quan đến việc xâm phạm quyền đối với bí mật đời t Vụ việc thứ nhất Báo điện tử VietNamNet có đa tin Chiều 20 09 200 6, TAND Quận 3 đã tuyên báo Tuổi Tr , NXB Trẻ và nhà báo Thuỷ Cúc đã xâm phạm đời t ông Trần Tiến Đức khi xất bản, phát hành cuốn... cha có định nghĩa về bí mật đời t, nhng có thể hiểu tất cả những gì thuộc về cá nhân ngời đó nh nhân thân, tài sản, kể cả tài sản riêng t của ngời ta có đợc bởi hoạt động hợp pháp, pháp luật không bắt buộc họ phải công khai thì đó đợc xác định là đời t của họ Cá nhân em cũng đông ý với ý kiến của tiến sĩ Lê Thu H , quyền tài sản cũng là một bí mật đời t cá nhân Dới góc độ pháp luật, việc tiết lộ những... lộ khả năng, quan điểm, phong cách, lối sống, những niềm vui, nỗi buồn hay những bất hạnh khác mà ngời đó đã và đang phải trải qua ; những cá tính trong lao động, học tập, sinh hoạt có tính chất riêng gắn liền với nhân thân của ngời đ , không giống ngời khác mà ngời đó không muốn thổ lộ cho ai biết Bí mật đời t cá nhân đợc pháp luật bảo vệ thông qua những quy định trong Hiến pháp và Bộ luật dân sự Nếu . Đề tài Bí mật đời t vấn đề lí luận và thực tiễn Kết Cấu Bài Viết 1. Phần mở đầu 2. Nội Dung a. Phần lý luận I. Khái niệm Bí mật đời. còn là bí mật đời t nữa, và nó đã đợc chính những ngời trong cuộc tự nguyện công khai hoá cho nên, không có cái bí mật đời t chung chung mà bí mật đời t - Xem thêm -Xem thêm Bí mật đời tư , vấn đề lí luận và thực tiễn, Bí mật đời tư , vấn đề lí luận và thực tiễn,
Căn cứ pháp lý Bộ luật dân sự 2005 Bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu sự kiện, hoàn cảnh về đời tư của cá nhân mà người khác không được loan truyền nếu không được người đó đồng ý hoặc pháp luật cho phép. Bí mật đời tư của cá nhân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Quyền đối với bí mật đời tư gồm cả quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở và quyền tự do thư tín của công dân. Do đó, không ai được khám xét chỗ ở, bóc, mở, kiểm soát thư, điện tín, điện thoại, bưu kiện của người khác nếu mình không phải là người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Người bị vi phạm bí mật đời tư có quyền yêu cầu người vi phạm phải a. Chấm dứt hành vi vi phạm. b. Xin lỗi, cải chính công khai. c. Bồi thường thiệt hại. Trường hợp hành vi vi phạm cấu thành tội phạm thì người vi phạm bị xét xử về tội xâm phạm chỗ ở của công dân,tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện báo của người khác. - Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của LawNet . Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email nhch - Nội dung bài viết chỉ mang tính chất tham khảo; - Điều khoản được áp dụng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đang đọc; - Mọi ý kiến thắc mắc về bản quyền của bài viết vui lòng liên hệ qua địa chỉ mail nhch
bí mật đời tư